Trending
Loading...
  • New Movies
  • Recent Games
  • Tech Review

Recent Post

Thứ Ba, 25 tháng 12, 2018
Thứ Ba, 31 tháng 7, 2018
no image

Cách làm BÁNH DẺO TRUNG THU

Cách làm Bánh Dẻo Trung Thu

* Vỏ bánh dẻo trung thu:
- 40gam nước đường
- 1/2 thìa cà phê nước hoa bưởi
- 200gam bột bánh dẻo

- Một tay quấy nước đường, tay kia đổ từng thìa bột vào âu.
- Khi bột hòa quyện hết trong nước mới cho bột tiếp theo.
- Bột chuyển đặc hơn trong quá trình trộn.

- Khi bột đã tương đối đặc, chuyển dùng phới để trộn dễ hơn.
- Trộn tới khi dùng hết khoảng 2/3 lượng bột khô (140gam).
- Khối bột lúc này khá đặc, nhưng vẫn còn ướt và dính.

- Dùng 20-30gam bột khô, phủ lên mặt bàn sạch.
- Đổ bột ra bàn.
- Lấy thêm 1 thìa bột khô phủ lên mặt khối bột.
- Để bột nghỉ khoảng 10-15 phút.

- Rửa tay thật sạch để chuẩn bị nhồi bột.
- Nhồi bột nhẹ nhàng bằng động tác "gấp" bột.
- Dùng bột khô trên bàn để chống dính cho tay.
- Bột khô trên bàn sẽ thấm vào khối bột... làm khối bột dẻo và cứng dần trong quá trình nhồi.

- Khi gần hết bột khô, khối bột trở nên rất đặc dẻo... và không dính tay là bột đã đạt.

- Chia bột thành các phần, mỗi phần khoảng 110gam.
- Đậy kín phần bột chưa dùng để bột không bị khô.
- Dùng lòng bàn tay ép dẹt miếng bột.
- Nặn thành miếng tròn, ở ngoài mỏng hơn phần ở giữa.

- Lấy 1 phần nhân, đặt vào giữa miếng bột, gói lại.
- Nếu bột dính tay, dùng thêm bột khô.

- Chuẩn bị khuôn bánh (cỡ 150gam)
- Lăn nhẹ bánh trên mặt bàn để bao 1 lớp bột mỏng ngoài vỏ... lớp bột này sẽ giúp bánh không dính vào khuôn.
- Cho bánh vào khuôn, mặt mịn quay xuống dưới.
- Dùng lòng bàn tay, ép quanh viền và ở giữa.... giúp bánh dàn đều trong khuôn.
- Gõ nhẹ để lấy bánh ra khỏi khuôn.
- Hoặc các bạn cũng có thể mở nắp khuôn để lấy bánh.

- Cho bánh vào hộp/túi hoặc đậy kín để bánh không bị khô. Sau 1-2 ngày bánh chuyển trong, dẻo, ăn sẽ ngon hơn. Bảo quản bánh ở nhiệt độ phòng trong 5 ngày.




Thứ Sáu, 29 tháng 6, 2018
no image

Cách nấu lẩu gà ngon

Lẩu gà ngon:
* Nồi 1:
- Dầu ăn
- Gừng đập dập
- Hành khô đập dập
- Ớt sừng
- Ớt đỏ
- Xả đập dập

=> Tất cả cho vào xào.

=> Đổ nước vào nồi 1.

* Cho thêm vào nồi 1:
- 1 thìa muối
- 1 thìa gia vị mì chính
- 1 thìa đường
- 3 thìa mắm

=> Đun sôi 5 phút.

* Cho vào nồi 1:
- Nấm nương
- Nước cốt chanh 1,5 thìa.

*Nồi 2:
- Khoai môn
- Ngô ngọt
- Mùi tàu
- Cà chua
- Hành lá
- Ớt cay
- Bơ
- Rượu trắng

=> Đổ nước dùng từ nồi 1 vào.

* Nguyên liệu dùng kèm lẩu:
 - Nấm kim châm
- Rau cải cúc
- Thịt gà
- Ngải cứu
- Mì tôm

Xem thêm: Cách làm bánh dẻo trung thu
Chủ Nhật, 10 tháng 6, 2018
CÔNG THỨC KẸO CHIP CHIP CHO BÉ

CÔNG THỨC KẸO CHIP CHIP CHO BÉ

Tết này bố mẹ có món ngon thì bé cũng có món nhâm nhi rồi nha.
* Nguyên liệu:
- 120ml nước (cốt chanh leo, cốt cam, cốt dâu, dừa..)
- 100gr đường (nên dùng đường dành cho người tiểu đường)
- Gelatin 25gr (dùng loại bột nhé, lá không ăn thua đâu)



* Cách làm:
- Trộn gelatin với đường, rồi sau đó đổ nước cốt vào khuấy đều trong 5-7 phút.
- Đun sôi hỗn hợp trên bếp tầm 10 phút với lửa nhỏ nhất, các mẹ đun lâu hơn cũng được nhưng tớ sợ kẹo cứng nên chỉ đun thế thôi. Vì càng đun lâu kẹo sẽ càng dai và cứng.
- Chuẩn bị khuôn, dùng bông dầu lau qua khuôn cho kẹo dễ gỡ.
- Hớt bọt (đun ít sẽ vẫn có ít bọt các mẹ nhé).
- Tắt bếp, để 3 phút cho tan bớt bọt thì đỏ vào khuôn.
- Ngâm khuôn có kẹo vào khay nước cho nhanh nguôi. Khi nguội hoàn toàn thì bóc kẹo ra đĩa, để tầm 10 tiếng rồi bỏ vào lọ cho vào tủ lạnh.
- Nếu cho ngay vào tủ lạnh thì kẹo sẽ rất nhanh chảy nước.
* Lưu ý: Kẹo dẻo nên các mẹ tùy độ tuổi của con mà để kích thước to nhỏ nhé! (Con bé thì cắt hột lựu thôi, để to các công chúa, hoàng tử bỏ hết vào mồm nhồm nhoàm là không ổn đâu, dễ nghẹn lắm).
Thứ Tư, 11 tháng 4, 2018
BÍ QUYẾT SINH CON TRAI THEO Ý MUỐN

BÍ QUYẾT SINH CON TRAI THEO Ý MUỐN

MỌI NGƯỜI CHÚ Ý NHÉ: TẤT CẢ CHỈ LÀ MANG TÍNH CHẤT THAM KHẢO CHỨ KHÔNG PHẢI ĐÚNG HOÀN TOÀN. VÌ TÙY MỖI NGƯỜI MỘT CÁCH NGHĨ, AI QUAN TÂM THỰC SỰ THÌ HÃY ĐỌC VÀ CHIA SẺ CẢM NGHĨ CỦA MÌNH NHÉ, AI CÓ KINH NGHIỆM THÌ CHIA SẺ ĐỂ MỌI NGƯỜI CÙNG BIẾT NỮA NHÉ.


Qua 6 tháng thai kỳ, lần nào siêu âm cũng cho một kết luận: "Giống bố". Mình thấy vấn đề này luôn được nhiều người quan tâm và cũng nhiều người hỏi kinh nghiệm của mình, mình đã chia sẻ ở trong bài viết rất nhiều rồi nên mọi người khi muốn tìm hiểu thì chịu khó đọc hết các commnet nhé, vì nó không chỉ có kinh nghiệm của mình mà còn có kinh nghiệm của rất nhiều các mẹ khác nữa.

Ngoài ra, bí quyết thành công của mình, mình sẽ đăng luôn thông tin lên đây để mọi người dễ đọc ạ, cũng là để mọi người đỡ phải hỏi đi hỏi lại nhiều cùng một thông tin nhé! (Mình chỉ nêu cơ bản thôi nhé!)



1. Về thuốc bắc: Mình lấy thuốc của ông Nguyễn Duy Đường ở Đông Bích, Đông Thọ, Yên Phong, Bắc Ninh. Đến lấy thuốc các mẹ nên lấy khi vừa hết chu kỳ kinh, uống thuốc này thường phải uống trong vòng 1 tháng liên tục trước khi dự định có bầu.

Ngoài ra còn có các địa chỉ nổi tiếng khác như:
- Ông Khang ở Đại Lâm, Tam Đa, Yên Phong, Bắc Ninh: 0913.341.102.
- Cụ Xóa ở Thôn Phù Ninh, Thanh Vân, Tam Dương, Vĩnh Phúc: 01686.859.858.
- Ông lang Nguyễn Duy Hợp, vợ là Chuyên - Thuận Thành, Bắc Ninh.

2. Thuốc tây:
- Chồng:
Bổ gan: Ngày 2 viên
Bổ thận: Ngày 2 viên
Provit: Ngày 1 viên
Vitamin E: Ngày 2 viên
Hàu: Ngày 2 viên

- Vợ:
Kali: Ngày 1 viên
Kẽm: Ngày 2 viên
Vitamin E: Ngày 1 viên.

Các mẹ nên cho chồng uống tinh chất hàu càng sớm càng tốt nhé. Còn kali, mình  uống vào tháng dự định có bầu, chỉ uống ngày 1 viên, tối đa là uống 30 viên cho đến ngày có bầu thôi nhé, nếu không dễ bị thừa kali đó. Kali mình ra hiệu thuốc tự mua 26k/vỉ Kaleroid.

3. Tạo môi trường kiềm: Là rửa muối Nabica hoặc nước lá tía tô trước khi tiến hành xxx thụ thai. Để làm điều này, các mẹ phải theo dõi chu kỳ của mình trong ít nhất 3 tháng để đoán biết ngày rụng trứng. Có thể dùng que thử rụng trứng để xác định nhé. Mình thì thử que thử rụng trứng trong 2 tháng liền, ngày nào thử mình đều dán vào giấy lưu lại để so sánh.

4. Chế độ ăn uống: Mình tập trung cho chồng ăn vào tháng dự định sẽ có bầu (trong vòng 16 ngày kể từ ngày bắt đầu chu kỳ kinh của mình). Tập trung cho chồng ăn thịt bò, giá, và cá biển. Kiêng tuyệt đối đậu phụ, trứng, sữa và các chất kích thích khác.

=================================================================

Mẹ nào có kinh nghiệm khác thì chia sẻ cùng cho các mẹ khác cùng học nhé. Mẹ nào không quan tâm thì bỏ qua nhé!

1. Ăn uồng (thực hiện khoảng từ 3 tháng).

- Chồng:
Ăn thịt bò, gà, chó, hải sản (đặc biệt là hàu thì 1-2 bữa/tuần nhé) Rau quả, giá đỗ, chuối...
Kiêng bia rượu (hạn chế tối đa), thuốc lá (cấm tuyệt đối càng tốt), không ăn đậu phụ.
Bổ sung: Vitamin C, kẽm (mua ở hiệu thuốc).

- Vợ:
Ăn thịt, rau, củ quả, uống sữa đậu nành, chuối, sầu riêng, ngũ cốc...
Kiêng sữa các loại, hải sản (ăn ít cũng được).
Bổ sung: Vitamin E, C và rửa bằng muối natri cacbonat loãng trước khi thụ thai.
Riêng mình thì uống thêm thuốc nam (tác dụng dễ thụ thai, tạo môi trường kiềm, giúp trứng phát triển.



2. Canh trứng: (Có thể canh tại nhà hoặc theo bác sĩ). Kinh nghiệm của mình là tự canh tại nhà vì theo bác sĩ không chủ động và hay bị tâm lý. Mà đã tâm lý thì trứng có thể không rụng nên không có bầu được. Ok. Những mẹ kinh không đều sẽ khó khăn hơn.

- Canh trứng từ ngày thứ 9 của chu kỳ kinh (ngày có kinh đầu tiên tính là ngày thứ 1 các mẹ nhé).
- Mỗi ngày 1 lần vào sau 8 giờ sáng. Tức là 9 giờ sáng nay thì 9 giờ sáng mai lại thử.
- Đến ngày thứ 12 thì các mẹ nên chú ý thử nhiều hơn (có thể 2, 3 lần nếu thấy vạch phía trên đỏ đậm).
- Hôm nào các mẹ thấy 2 vạch đỏ gần bằng nhau (tức là có thể ngày 12, 13, 14, 15 tùy vào chu kỳ của các mẹ) thì hôm đó thử nhiều lần (2 tiếng 1 lần thử). Thấy 2 vạch đỏ chót thì tối hôm đó xxx nhé.

* Chú ý đặc biệt quan trọng: Các mẹ phải có lịch sinh hoạt với chồng cách hôm xxx (hôm rụng trứng) từ 4-5 ngày và phải dùng biện pháp nhé, đừng có thả bừa.

* Chú ý nữa để kịp nước rút nè: Trước khi hai vợ chồng xxx thì chồng uống cốc cà phê (cách lúc xxx khoảng 30 phút đến 1 tiếng). Vợ thì pha nước muối natri cacbonat loãng (tỷ lệ 1 gói muối: 500ml nước), ngồi vào chậu nước đó ngâm 10 phút. Hoắc có thể ngâm bằng nước lá tía đô (đã xay và lọc lấy nước). Có thể dùng xilanh đã bỏ đầu kim tiêm để bơm vào vài lần.

* Cuối cùng là bật nhạc du dương và hai ta đưa nhau lên thiên đường ngắm sao (ngắm nhau sau 11 giờ đêm hoặc sáng sớm càng tốt). 

=======================================================================

Bơm nước muối Nabica vào âm đạo:

Chỉ bơm vào đúng ngày hành động, không được bơm vào các ngày khác vì không có tác dụng mà lại đổi môi trường âm đạo lâu dài dễ gây viêm nhiễm, nguy hiểm.

1. Nước tiêu muối:
Tên gọi: thuốc tiêu muối, baking soda, thuốc muối chữa dạ dày.
Công dụng: chữa đau dạ dày.
Tên hóa học: 1-Natri bicarbonat 2-Natri hydocarbonat 3-Bicarbonat natri
Công thức: NaHCO3.
Thụt rửa sâu âm đạo bằng dung dịch kiềm nhẹ trước khi giao hợp 1 giờ.
Cách pha: 2/3 thìa cà phê = 9gr hòa trong 1 lít nước chín đun sôi để nguội.
Chú ý: Pha cho đúng nồng độ (không pha nhiều hơn, làm chết tinh trùng).
Nếu nữ đã ăn mặn rồi/ đạt cực khoái 1/2 thìa hoặc không cần bơm nữa. 
Nếu nữ bị viêm nhẹ hoặc ăn quá chua: pha 1 thìa.



2. Lá tía tô:
Nếu không mua được thuốc muối, mua lá tía tô luộc chín lấy nước bơm vào âm đạo (Dùng: 1 lạng lá)
Cách rửa:
Dùng bơm tiêm thông thường, bỏ kim ra, hút đầy, cho vào âm đạo sâu ngập ống tiêm, xịt khoảng 5 lần.

- Do tư thế bơm (nằm hoặc ngồi) nước muối sẽ chảy ngược ra chứ không chảy vào trong, không thấm vào âm đạo. Do vậy, việc bơm thuốc muối vào âm đạo chỉ có tác dụng nhỏ đổi với việc diệt tinh trùng X. Như việc bước nhanh qua vũng nước ngập, không đủ ướt chân.
- Một số bác sĩ cho uống thuốc muối hoặc uống tạo môi trường kiềm. Đặt viên thuốc tại âm đạo tạo môi trường kiềm, không có nhiều tác dụng.

=======================================================================

Cách canh trứng đúng và hiệu quả nhất:

Trước khi nói về canh trứng thì mình muốn chia sẻ với các mẹ: Muốn có con trai thì cần rất nhiều yếu tố để tạo thành. Nhưng theo quan điểm của mình, có 3 yếu tố chính:

1. Chất lượng tinh trùng.
2. Môi trường âm đạo.
3. Thời điểm sinh hoạt (thời điểm rụng trứng).

Ngoài ra còn 1 số yếu tố: tâm lý, số phận... là những yếu tố nhỏ hơn.

Cách soi trứng: Tự soi hoặc theo bác sĩ hoặc kết hợp cả 2 nhé.

* Cách 1: Canh theo bác sĩ.
- Ưu điểm: Biết được kích thước trứng và niêm mạc theo máy đo. Được bác sĩ chỉ dẫn và chỉ định ngày sinh hoạt.
- Nhược điểm: Tốn kém kinh tế hơn que thử, tâm lý căng thẳng khó thụ thai, không theo sát được đúng thời điểm rụng trứng. Đây là nguyên nhân mà mình theo bác si 7 tháng mà tạch. Vậy nên không khuyên các mẹ theo bác sĩ hoàn toàn nhé. 
Có nhiều mẹ nói: Hôm trước bác sĩ bảo chưa rụng, hôm sau đến rụng mất từ bao giờ và không thụ thai được nữa. 
Lý do: Chiều nay siêu âm trứng rất đẹp. Nhưng chưa rụng. Bác sĩ thường hẹn các mom chiều mai đến siêu âm tiếp. Nhưng thực tế. Có mẹ về thi sau vài tiếng đã rụng rồi. Nên hôm sau đến siêu âm trứng đã rụng từ lâu. Bác sĩ chỉ định tối về xxx. Nhưng tính từ lúc trứng rụng thì đã quá 24 giờ. Vậy nên chúng ta vẫn "TẠCH" là thế đấy ạ. Vì mình đã tìm hiểu kỹ và được biết. Sau thời gian xxx thì tinh trùng còn mất thời gian từ 4-6 tiếng mới vào được để gặp trứng. Chứ không phải sinh hoạt cái gặp được ngay các mom nhé.

Vậy nên để đạt hiệu quả cao nhất thì các mom xxx vào thời điểm trước và sau rụng trứng (6-12 giờ), hoặc đúng thời điểm rụng trứng thì kết quả cao nhất nhé.
Vậy nên chỉ có chúng ta mới quyết định được thời điểm ấy chuẩn nhất bằng cách tự canh trứng.

* Cách 2: Tự canh trứng.
- Ưu điểm: Kinh tế, thuận lợi, không tốn thời gian, tâm lý thoải mái.
- Nhược điểm: Nhiều mom không biết cách soi nên soi không đúng ngày. Thử que quá muộn nên không biết được thời gian rụng trứng. Không biết được trứng phát triển tốt hay không.

* Cách 3: Tự canh và kết hợp soi trứng theo bác sĩ (cách này hiệu quả nhất).
- Cách canh trứng: Canh từ ngày thứ 10 trở đi. Mỗi ngày canh 1 lần băng que thử. Và thử vào cùng 1 thời điểm.
- Đến ngày que báo vạch dưới gần đậm. Các mom nên đi siêu âm 1 lần. Để biết kích thước trứng và niêm mạc.
- Bác sĩ sẽ thông báo kích thước và dự tính vài ngày rụng trứng để ta nắm được.
- Tiếp tục hôm sau thử que.
- Đến ngày vạch dưới đậm bằng vạch trên: Mom sẽ thử liên tục 2-3 que/ngày.
- Theo dõi thân nhiệt và dịch âm đạo: Chúng ta sẽ quyết định giờ sinh hoạt theo thời gian mà chúng ta sắp xếp được một cách chuẩn nhất.
- Nếu đã là tính con trai và đã xác định chuẩn thời điểm rụng trứng thì khi xxx chúng ta thực hiện 1 lần duy nhất nhé.
- Sau khi đã xxx khoảng 12 giờ. Đi siêu âm lại 1 lần để biết chắc chắn trứng đã rụng chưa các mom nhé.
- Chú ý khi xxx tâm lý 2 vợ chồng thoải mái. Cùng giúp nhau lên đỉnh thì tỷ lệ thành công sẽ rất rất cao. Chú ý thêm về tạo môi trường kiềm trước sinh hoạt 1 tiếng các mom nhé. Cho chồng làm tách cà phê trước 30 phút - 1 tiếng nhé.

* Tùy chu kỳ dài hay ngắn mà các mom canh cho chuẩn. Mỗi người có thể trạng khác nhau. Nên tự xác định khoảng rụng trứng để giữ tinh trùng 5-7 ngày trước hôm sinh hoạt nhé.

=======================================================================

1. Canh theo bác sĩ đúng rụng trứng vẫn tạch:
- Lý do 1: Các bạn quá căng thẳng. Tạo áp lực cho chính bản thân nên không thể thụ thai.
- Lý do 2: Bạn ngâm kiềm quá đặc hoặc quá sát giờ sinh hoạt gây rát âm đạo, bạn không đạt đỉnh cũng khó thụ thai.
- Lý do 3: Anh xã của bạn tinh trùng yếu. (Không có Y, mà X bị kiềm tiêu diệt nên tạch).
- Lý do 4: Bác sĩ chỉ định xa giờ rụng trứng. Cái này là lý do lớn nhất.

Bởi vậy, khuyên tất cả các bạn hãy tự canh trứng, tự lắng nghe thay đổi của cơ thể (rụng trứng sẽ tức bụng và nhiều dịch nhầy như lòng trắng trứng gà). Kết hợp với soi 1,2 lần để biết kích thước trứng. Tự quyết định thời gian sinh hoạt với tâm lý thoải mái, là các bạn sẽ đón zai yêu.

2. Canh bác sĩ đúng rụng trứng mà vẫn ra gái:
- Lý do 1: Vợ chồng các bạn có thể chưa ăn uống bỏ sung đủ thời gian cần thiết để tinh trùng của chồng khỏe, niêm mạc vợ tốt.
Chồng tinh trùng yếu, đúng rụng trứng vẫn gái nhé. Nên phải có kế hoạch bổ sung ăn uống cho chồng.
- Lý do 2: Vợ môi trường axit mạnh, Diệt hết Y, Gặp X nên gái.

Tóm lại là muốn được zai yêu:
1. Tinh trùng khỏe.
2. Môi trường âm đạo tốt (Kiềm).
3. XXX sát thời điểm rụng trứng.
4. Tâm lý tốt để cùng đạt đỉnh.




Thứ Ba, 10 tháng 4, 2018
XẾP ĐỜI THÀNH LỊCH

XẾP ĐỜI THÀNH LỊCH

Những mắt xích đan chéo nhau tạo nên cái gọi là "cuộc đời". Đi qua nhiều năm tháng, nhiều thời gian, bao nhiêu lần hẹn với mình một ngày nào ngồi sắp xếp lại tất cả những vui buồn, gói lại hay mở ra những gì mình đã có, nhưng vẫn chưa lúc nào làm được.

Ngày trẻ, người ta đếm đới bằng ngày, bằng tuần. Bây giờ già hơn, mình có một niềm "tự hào" kỳ cục: là có thể đếm đời bằng hàng chục năm. Ban đầu đó chỉ là những con số thuần túy cơ học, nhưng đệm một hồi rồi thấy, sâu trong những con số ấy đều có một linh hồn: linh hồn thời gian.



"Ta ngập ngừng qua hết tuổi đôi mươi..."

Những ngày thanh xuân, khi hoa lá cuộc đời vừa hé nụ, mọi thứ còn non tơ, tươi tắn, ai khi nhớ lại cũng dễ nghĩ, đây là giai đoạn đẹp nhất của đời mình. Song hầu như không phải vậy.

Lật lại những trang nhật ký của ngày xưa, thấy mình cũng nhiều lo lắng, nhiều buồn bã lắm và cũng phải vất vả nhiều mới tìm ra được thứ mình cần. Điều cơ bản là ở tuổi này, mình gần như chưa ý thức được hết sự quý giá của mỗi khoảnh khắc sống trong cuộc đời non trẻ của mình.

Những bước chập chững đầu đời, tự tin vô cớ, va vấp loạn xạ, hy vọng và thất vọng thường xuyên, chưa kịp đau  hết nỗi đau này, đã có thể ngu ngơ mỉm cười với nỗi đau khác. Những năm 20 khởi đầu bằng biết bao mơ ước rực rỡ về những điều kỳ diệu, và kết thúc theo một cách mà mình (lúc ấy) nghĩ rằng thật riêng biệt, nhưng (bây giờ) nhớ lại, thì thấy cũng giống mọi người thôi.



Qua vèo như một giấc mơ, năm 20 tuổi và năm 29 tuổi hình như không khác gì nhiều lắm, mình chưa cảm nhận được thời gian đi chậm hay nhanh thì tuổi 20 đã hết. "Ta ngập ngừng qua hết tuổi đôi mươi..." Những năm ấy, mình nhiều khi thật "ngu dại", thật "sến", nhưng không sao, may nhờ hồi đó ngu hết định mức rồi, sến hết định mức rồi nên bây giờ đỡ ngu, đỡ sến lại. Cô bạn mình hồi đó tỉnh táo lắm, đến bây giờ tóc đã bắt đầu điểm bạc thì mới cuống cuồng sến khờ sến dại, đến nỗi mọi người xung quanh thấy kỳ cục, mà mình cũng chẳng biết nói sao.

Chặng đường này là nơi khởi đầu cho mọi sự lớn lao trong đời một người đàn bà: lấy chồng, sinh con, xây dựng một gia đình, bắt đầu một nghề nghiệp... Ai cũng tin đó là sự bắt đầu để rồi sẽ chín tới. Cho dù rồi có người sẽ gãy đổ, có thứ sẽ hóa ra tầm thường, nhưng đó là của giai đoạn sau. Ước mơ, lòng tin và tình yêu vẫn là những điều đẹp đẽ ở 10 năm này, đẹp bởi vì niềm tin tinh khôi và còn chút dại khờ con trẻ.



Những mùa hoa "như lửa cháy khát khao..."

Tuổi 30 ào đến khi mình chưa kịp đếm, nhưng 10 năm này sẽ đi qua với những thấm thía trải nghiệm vô cùng sâu sắc. Như đất trời mùa hạ, mưa giông, bão táp, phong ba, nắng hối hả và mưa tầm tã, tất cả diễn ra trong những khoảnh khắc bất ngờ và liên tục.

Bước vào tuổi 30, có những phút thức tỉnh làm ta choáng vàng, thức tỉnh về bản thân mình, thức tỉnh về người làm bạn đời mà mình đã lựa chọn. "Hội chứng bảy năm sau hôn nhân" là đây. Có người tung hê tất cả sau những thất vọng và đổ vỡ. Có người hiểu rằng, cho dù có tất cả những khác biệt, những thất vọng đó, mình cũng phải chấp nhận, phải sống chung, cùng nuôi dạy con cái, bởi không muốn trở lại những tìm tòi và lựa chọn lúc này.

Tuổi 20 chọn lựa, nhưng tuổi 30 phải sắp xếp và vận hành cuộc sống. Ngẩng đầu lên và đối mặt với những thách thức của cuộc đời, cô gái yếu đuối trở thành người đàn bà vững vàng và mạnh mẽ hơn. Nhiều ông chồng đã bật kêu lên: "Hồi xưa sao hiền lành dịu dàng là thế, giờ có con, nàng biến thành... cọp mất rồi!"

Những đứa con chiếm nhiều thời gian của người mẹ, lý do này khá quan trọng, tuy nhiên chưa phải là lý do duy nhất để làm mình thay đổi. Sâu xa hơn, trong lòng mình, cái ảo tưởng "nương bóng tùng quân" đã bắt đầu lung lay và yếu ớt dần. Mình bắt đầu hiểu, có những vấn đề chỉ riêng mình mới có thể giải quyết. Song song với điều đó, hình như khi người đàn bà bắt đầu trưởng thành ở tuổi 30 thì những người đàn ông của họ vẫn còn ham chơi và chưa kịp lớn.

Điều này dẫn tới việc mình phát hiện ra những người khác đã lớn kịp mình, hoặc lớn hơn hẳn mình. Tình yêu ở đây không phải là sự ngưỡng mộ si mê dai dẳng hay sự phải lòng chốc lát của tuổi trẻ, nó là sự nhận thức về những gì mình thiệu hụt trong cuộc sống, và ý thức bù đắp quyết liệt. Có những ngọn lửa cháy ở lửa tuổi này nồng nàn, tha thiết đam mê, cái đam mê mà lứa tuổi thanh xuân không bao giờ với tới. Không còn nhầm lẫn giữa sự trẻ trung và sự quyến rũ, không còn nhầm lẫn giữa tình yêu và lòng thương nhớ lặng thầm, người đàn bà muốn cái mình còn thiếu, và đi thẳng đến, cầm lấy cái mình muốn.



Trong đời, người ta có những quãng thời gian để làm một số việc đã được xác định. Những năm tuổi 30 thường người phụ nữ làm nhiều, mất nhiều mà được cũng nhiều. Những nỗ lực cá nhân cùng với nhận thức của bản thân không cho phép mình phiêu lưu với tình yêu nữa.

Mười năm của tuổi 20, đã từng tha thiết, tưởng có thể chấp nhận hy sinh tất cả, tưởng sẽ dài lâu, sẽ yêu đến trọn đời... đã cho họ những kinh nghiệm. Vậy nên, những mối tình của tuổi 30 thường được cất đi khi đến lúc cần phải cất, êm thấm và lặng lẽ. Cả những nỗi thất vọng cũng được tự thu xếp một cách âm thầm. Vẫn trẻ trung, nồng nàn, tự chủ và đầy hiểu biết - khi mình ở tuổi 40, mình thấy chân dung của người đàn bà ở tuổi 30 là vậy.



"Nhìn những mùa thu đi..."

Khi mình biết chấp nhận những điểm yếu của mình, mình bắt đầu sang tuổi 40. Trẻ con trong nhà bắt đầu vào tuổi dậy thì. Cuộn phim cuộc sống bắt đầu thấp thoáng những cảnh quay cũ được tua lại. Bất chợt nhận ra, mùa thu của cuộc đời sẽ đến trong nay mai. Bất chợt nhận ra không còn nhiều thời gian, mình sắp sửa mấp mé sang bờ bên kia của con dốc cuộc đời. Ai đó chưa một lần yêu ở thời tuổi trẻ, lúc này sẽ hốt hoảng dại khờ yêu, mà yêu ở tuổi này, chắc sẽ ngớ ngẩn và sai sót, kéo theo những hệ lụy chưa chắc còn thời gian để sửa chữa.

Nhưng, tìm lại trong những bài hát cũ, thấy Life starts at 40 (John Lennon) - Cuộc đời bắt đầu ở tuổi 40. Sự bắt đầu có lẽ được hiểu ở chỗ tuổi 40 là tuổi để tái hiện đầy đủ những gì mình đã bỏ quên trong 20 năm qua. Tự chủ về kinh tế, đằm thắm về tinh thần, mình hiểu ra rằng mọi chuyện đều có thể xảy ra trên đời, đều có cái lý sâu xa của nó, và mình bình tĩnh đón nhận, suy xét, để có thể vượt qua. Sự bắt đầu ở tuổi 40 là sự bắt đầu của một "thương hiệu vàng" về phong cách, phẩm chất và vị trí gia đình, vị trí xã hội.

Tuổi 40, người phụ nữ biết nâng niu mình hơn. Khi những nỗi mệt mỏi của cơ xương, của suy tư có thể đến ngay từ buổi sáng sớm, khi bỗng nhiên mất ngủ, mình biết cái giá của một khuôn mặt vui vẻ, biết trân trọng che đi những rãnh sâu dưới mắt. Vẻ đẹp thiếu phụ rực rỡ mà mỏng manh, đang ở đoạn cuối con đường nhan sắc, rực lên một ánh hoàng hôn buồn lộng lẫy để rồi có thể bất ngờ tắt lụi mà không cần đếm xỉa đến những tiếc nuối của khổ chủ. Son phấn, áo quần và tự chủ tinh thần làm nên diện mạo của tuổi 40. Tuổi 20 chỉ cần rửa mặt sạch buổi sáng, chui vào một chiếc áo sơ mi rộng thùng thình, tung tăng xuống phố hay ngồi buồn lãng mạn trong góc quán cà phê mà vẫn có bao nhiêu ánh nhìn ngưỡng mộ. Bốn mươi tuổi, không son phấn là "nghe những tàn phai", quần áo cẩu thả là lộ ngay ngấn mỡ này hay sự chảy xệ khác, và ngồi một mình trong quán cà phê đồng nghĩa với sự chờ đợi khắc khoải hay lặng lẽ khóc mà thôi...



"Về thu xếp lại..."

Mùa đông có lẽ là mùa dài nhất, bởi trong đời hầu như không có mùa xuân nào bừng lên cuối con đường tuyết trắng. Không phải không có lý khi các nhà chuyên môn gọi những ánh hào quang của tuổi 50 là "hồi xuân" - một mùa xuân ngắn ngủi và nhiều xáo động bất thường, xảy ra giữa những ngày đông và mở ra một thời kỳ phải thu xếp cuộc đời theo một cách khác, cho dù muốn hay không.

Có những nỗi lo lắng về sự thay đổi sâu xa trong cơ chế sinh học của mình, và về thói "lo ra" của các đức ông chồng. Những cơn bão lòng cũng hay gắn với những cơn bốc hỏa tiền mãn kinh, những cảm giác về sự thua thiệt... dễ làm mất đi niềm vui sống. Nhưng một số chị rất bình tĩnh cho biết, tuổi này cũng chính là lứa tuổi của sự cảm thông, trong đó nỗi thông cảm đầu tiên là thông cảm với ông chồng mình. (Thực ra ổng cũng hơn 50 tuổi, và cũng bắt đầu thiếu tự tin, nên tìm những đối tượng dễ tin hơn để tự củng cố lại niềm tự tin của ổng. Còn đối với mình, ổng biết không lừa được nữa rồi, bao nhiêu  năm quần xà lỏn áo may ô, bây giờ làm sao che giấu được những bắp thịt đã nhão nhoét, hay hóa phép che đi cái bụng mỡ chình ình...). Các chị biết, các ông chồng cũng đến lúc hồi xuân, cũng phải tỏ vẻ thế thôi, nhưng đi đâu rồi cũng trở về nhà. Người phụ nữ mỉm cười, không còn đấu tranh với sự bao dung và kiên nhẫn, họ biết "gìn giữ hòa bình thế giới" và vì không muốn làm cực chính bản thân mình. Tuổi 50 của người phụ nữ là lứa tuổi của vẻ đẹp đã được đóng khung, và cần có sự hiểu biết, cảm thông, liên tưởng, mới chiêm ngưỡng được vẻ đẹp ấy. Họ biết hạnh phúc đến từ những điều giản dị, nên quý giá cuộc sống vô cùng. Họ sống cho mình, sống thông minh và tinh tế hơn. Cuốn phim cũ về cuộc sống bắt đầu tua lại, chầm chậm, thường xuyên: Những yêu đương si mê và những sai lầm của con trẻ, lời khuyên của mẹ và những kinh nghiệm mà bọn trẻ cho rằng đã lỗi thời, nhưng chỉ có mình mới biết: chỉ người chơi là mới thôi, còn trò chơi thì đã cũ lắm rồi...
CÁCH TÍNH NGÀY DỰ SINH CHÍNH XÁC NHẤT CHO CÁC MẸ BẦU

CÁCH TÍNH NGÀY DỰ SINH CHÍNH XÁC NHẤT CHO CÁC MẸ BẦU

1. Cách tính ngày dự sinh dựa vào việc khám thai

- Các nhà chuyên môn sẽ dựa vào tuần thai để tính tuổi thai và dự tính ngày sinh thông qua các dấu hiệu lâm sàng như chiều cao tử cung, thời điểm thai cử động, nghe thấy tim thai.
- Ngoài ra còn dùng kỹ thuật X quang. Ví dụ khi có điểm cốt hóa xuất hiện trên phim thì tuổi thai từ 12-14 tuần, trước 16 tuần đã có thể phát hiện ra bóng của ruột và tiểu khung của thai. Tuy nhiên, chụp X quang có một vài ảnh hưởng không tốt cho thai nhi nên ngày nay, kỹ thuật siêu âm đã thay thế cho kỹ thuật X quang.
- Sử dụng siêu âm để tính tuổi thai không cần dựa vào ngày mất kinh hay ngày thụ thai, 5 tuần đã có thể nhận ra một cực thai, 7-8 tuần đã nhận ra nhịp đập của tim thai.
- Đo đường kính lưỡng đỉnh của thai là phương pháp đáng tin cậy để xác định tuổi thai ở 20-30 tuần. Sự phát triển của thai trong giai đoạn này tăng dần và nhanh. số đo chính xác nhất ở tuần 20-24 và đo lại và lúc 26-30 tuần. Do vậy, đây là căn cứ để xác định ngày trẻ chào đời.



2. Cách tính ngày dự sinh dựa vào việc tính toán chu kỳ kinh nguyệt.

- Nếu như các bác sĩ đoán tuổi thai dựa vào siêu âm, đo chiều cao tử cung, thời điểm thai cử động và tim thai... thì các bà mẹ cũng có thể tự tính được ngày sinh nhờ vài cách rất đơn giản. Cách tính trước đây là phương pháp "9 tháng 10 ngày". Chúng ta thường lấy thời gian 4 tuần làm 1 tháng mang thai, toàn bộ quá trình là 280 ngày, tức 40 tuần cho nên thường là mang thai 10 tháng.
- Khi việc thụ thai xảy ra một cách tự nhiên, việc tính ngày dự sinh thường dựa trên tính ngày thụ thai hoặc chu kỳ kinh nguyệt của người mẹ. Thời điểm dự sinh thường được tính từ ngày đầu tiên của kỳ kinh cuối, sau đó cộng thêm 40 tuần. Đây là cách tính khi người mẹ có vòng kinh 28 ngày, bởi người ta cho rằng việc thụ tinh thường xảy ra trong khoảng 14 ngày sau khi chu kỳ kinh nguyệt bắt đầu.

Đôi khi có thể tính ngày thụ thai khá chính xác nếu việc quan hệ vợ chồng diễn ra không thường xuyên. Đối với một số gia đình như quân nhân, công nhân mỏ, vợ chồng thường sống xa nhau, việc sinh hoạt vợ chồng diễn ra rời rạc. Nên nếu bạn nhớ được chính xác thời điểm quan hệ, bạn có thể ước tính ngày thụ thai, từ đó tính ngày dự sinh là được.



- Nhưng không phải người phụ nữ nào cũng có vòng kinh chính xác 28 ngày. Do đó, khi tính thời điểm dự sinh, bạn cần phải dựa trên những yếu tô riêng của mỗi người.
Nếu một người phụ nữ đã được áp dụng các biện pháp hỗ trợ sinh sản, thì có thể dự đoán thời điểm em bé ra đời dễ dàng hơn. Đó là bởi vì thụ tinh ống nghiệm xác định được rõ ngày thụ thai, tốc độ phát triển của phôi thai và thời điểm chính xác khi phôi thai được cấy vào tử cung. Bên cạnh đó, một cách thức khác để ước tính thời gian mang thai là xét nghiệm máu nhằm đo lượng thay đổi nội tiết tố của người mẹ.

- Tính thao âm lịch: Nếu ngày đầu kỳ kinh cuối nhớ theo âm lịch thì tốt nhất là nên chuyển sang dương lịch rồi tính theo cách tính trên. Nếu thai phụ có thói quen nhớ ngày âm thì phương pháp dự kiến ngày sinh là: ngày đầu tiên của kỳ kinh cuối cộng với 9 tháng và 15 ngày.

- Tính theo dương lịch: Lấy ngày đầu tiên của kỳ kinh cuối (ngày thứ nhất khi có kinh lần cuối) cộng thêm 9 tháng và 7 ngày. Ví dụ ngày 1.2.2019 là ngày đầu tiên của kỳ kinh cuối, cộng thêm 9 tháng là ngày 1.11, cộng thêm 7 ngày nữa là ngày 8.11 là ngày dự kiến sinh.



- Có sự chênh lệch giữa một bên là cộng thêm 7 ngày và một bên cộng thêm 15 ngày là do sự chênh lệch số ngày trong một tháng của ngày âm thường ít hơn ngày dương. Theo tính toán của các chuyên gia cộng dồn tất cả lại là 8 ngày.
- Thời gian mang thai chính xác quyết định ở thời gian trưởng thành của thai nhi và thời gian ngắn của chu kỳ kinh nguyệt của người mẹ. Tỷ lệ như sau: Thông thường chu kỳ kinh nguyệt của một người phụ nữ cữ 3 tuần 1 lần, thời gian mang thai là 40 tuần - 1 tuần = 39 tuần. Phụ nữ có kinh 4 tuần 1 lần thì mang thai là 40 tuần, phụ nữ có kinh 5 tuần thi thời gian mang thai là 40 tuần + 1 tuần = 41 tuần.
- Một cách khác để dự kiến ngày sinh của em bé là lấy ngày đầu tiên của kỳ kinh cuối trừ đi 3 tháng, sau đó cộng thêm 7 ngày vào. Ví dụ như, nếu kỳ kinh cuối của người mẹ bắt đầu ngày 1.12, trừ đi 3 tháng trở về trước rồi cộng thêm 7 ngày sẽ ra ngày dự sinh là 8,9. Đây là một cách để tính 40 tuần mang thai.

3. Cách tính ngày dự sinh dựa vào thời gian phản ứng có thai

Ngoài ra phản ứng mới có thai thường bắt đầu khoảng sau khi tắt kinh 6 tuần, khi xuất hiện ngày phản ứng có thai cộng thêm 34 tuần là tính ra ngày dự kiến sinh.

4. Cách tính ngày dự sinh dựa vào thời gian thai cử động.

- Thời gian thai cử động thường bắt đầu vào cuối tháng 4 đầu tháng thứ 5, ngày xuất hiện hiện tượng thai cử động thêm 20 tuần là thời gian dự kiến sinh.

Mong rằng với 4 cách tính ngày dự sinh chính xác nhất giúp các mẹ chuẩn bị sẵn sàng chào đón con yêu.

Thứ Sáu, 27 tháng 10, 2017
Ý nghĩa 25 chỉ số xét nghiệm sinh hóa

Ý nghĩa 25 chỉ số xét nghiệm sinh hóa

1. Tên xét nghiệm: Ure máu
Chỉ định: Các bệnh lý về thận, kiểm tra chức năng thận trước phẫu thuật, can thiệp, kiểm tra sức khỏe định kỳ...
Trị số bình thường: 2,5 - 7,5 mmol/l
Ure tăng cao trong các trường hợp: Suy thận, thiểu niệu, vô niệu, tắc nghẽn đường niệu, chế độ ăn nhiều protein...
Ure thấp trong các trường hợp: Suy gan làm giảm tổng hợp ure, chế độ ăn nghèo protein, truyền nhiều dịch...
Cách lấy mẫu: Mẫu máu lấy vào buổi sáng, lúc đói: 3ml máu không chống đông hoặc chống đông bằng lithiheparin.



2. Tên xét nghiệm: Creatinin máu
Chỉ định: Các bệnh lý về thận, các bệnh lý ở cơ, kiểm tra trước phẫu thuật, can thiệp...
Nhằm mục đích đánh giá chức năng thận, mức độ suy thận
Trị số bình thường:
Nam: 62 - 120 mmol/l
Nữ: 53 - 100 mmol/l
Creatinin tăng cao trong các trường hợp: Suy thận cấp và mãn, bí tiểu tiện, bệnh to đầu ngón, tăng bạch cầu, cường giáp, Goutte...
Creatinin giảm gặp trong các trường hợp: có thai, dùng thuốc chống động kinh, bệnh teo cơ cấp và mãn tính...
Mẫu máu: Mẫu máu lấy vào buổi sáng, lúc đói: 3ml máu không chống đông hoặc chống đông bằng lithiheparin.

3. Tên xét nghiệm: Đường máu
Chỉ định: Nghi ngờ tiểu đường, kiểm tra trước phẫu thuật, can thiệp, đang điều trị cocticoid, đánh giá hiệu quả và điều chỉnh liều thuốc ở bệnh nhân đang điều trị tiểu đường, kiểm tra sức khỏe định kỳ...
Trị số bình thường: 3,9 - 6,4 mmol/l
Đường máu tăng cao gặp trong các trường hợp: Tiểu đường do tụy, cường giáp, cường tuyến yên, điều trị cocticoid, bệnh gan, giảm kali máu...
Đường máu giảm gặp trong các trường hợp: hạ đường huyết do chế độ ăn, do sử dụng thuốc hạ đường huyết quá liều, suy vỏ thượng thận, suy giáp, nhược năng tuyến yên, bệnh gan nặng, nghiện rượu, bệnh Addinson...
Mẫu máu: Mẫu máu lấy vào buổi sáng, lúc đói: 3ml máu không chống đông hoặc chống đông bằng lithiheparin.
Chú ý: Lấy máu lúc đói và chuyển máu xuống khoa xét nghiệm chậm nhất là 30 phút sau khi lấy máu.

4. Tên xét nghiệm: HbA1-C
Ý nghĩa và chỉ định: Nồng độ HbA1 C phản ánh tình trạng đường máu trong khoảng 2-3 tháng trước khi lấy máu xét nghiệm (xét nghiệm định lượng Glucose máu chỉ nói lên được hàm lượng đường tại thời điểm lấy máu làm xét nghiệm). Vì vậy HbA1 C được coi là thông số có giá trị để chẩn đoán và theo dõi điều trị tiểu đường.
Chỉ định: Nghi ngờ tiểu đường, những trường hợp cần kiểm soát đường máu, nhất là những bệnh nhân tiểu đường khó kiểm soát.
Trị số bình thường: 4 - 6%
HbA1-C tăng trong các trường hợp: Bệnh tiểu đường, bệnh tiểu đường khó kiểm soát.
HbA1-C tăng giả tạo trong các trường hợp: Ure máu cao, thalassemia.
HbA1-C giảm giả tạo trong các trường hợp: Thiếu máu, huyết tán, mất máu.
Mẫu máu: Mẫu máu lấy vào buổi sáng, lúc đói: 1ml máu tĩnh mạch chống đông EDTA.

5. Tên xét nghiệm: Acid Uric máu
Chỉ định: Nghi ngờ bệnh Goutte, bệnh thận, bệnh khớp, theo dõi hiệu quả điều trị bệnh Goutte...
Trị số bình thường:
Nam: 180 - 420 mmol/l
Nữ: 150 - 360 mmol/l
Acid uric tăng cao trong nhiều trường hợp: thường gặp nhất là bệnh Goutte, leucemie, đa hồng cầu, suy thận, ung thư, tăng bạch cầu đơn nhân, nhiễm trùng nặng, bệnh vẩy nến...
Acid uric giảm gặp trong các trường hợp: có thai, bệnh wilsson, hội chứng Fanconi...
Mẫu máu: Mẫu máu lấy vào buổi sáng, lúc đói: 3ml máu không chống đông hoặc chống đông bằng lithiheparin.

6. Tên xét nghiệm: SGOT (ALAT)
Ý nghĩa: SGOT là men xúc tác phản ứng trao đổi nhóm amin. GOT không những ở bào tương (khoảng 30%) mà nó còn có mặt ở ty thể của tế bào (khoảng 70%). Nồng độ men SGOT phản ánh tình trạng tổn thương tế bào gan, cơ tim.
Chỉ định: Viêm gan, nhồi máu cơ tim, viêm cơ, tai biến mạch máu não...
Trị số bình thường ≤ 40 U/I
SGOT tăng cao trong các trường hợp: Viêm gan cấp do virus hoặc do thuốc, tan máu, viêm gan do rượu, nhồi máu cơ tim, viêm cơ...
Lưu ý trong các trường hợp tế bào hồng cầu bị vỡ thì SGOT tăng rất cao.
Mẫu máu: Mẫu máu lấy vào buổi sáng, lúc đói: 3ml máu không chống đông hoặc chống đông bằng lithiheparin.

7. Tên xét nghiệm: SGPT (ASAT)
Ý nghĩa: SGPT là men chỉ có trong bào tương của tế bào gan. Nồng độ SGPT phản ánh tình trạng tổn thương tế bào gan do viêm.
Chỉ định: Viêm gan (cấp, mãn), nhũn não...
Trị số bình thường ≤ 40 U/I
SGPT tăng cao gặp trong các trường hợp viêm gan, nhũn não.
Nếu SGPT >>> SGOT: Chứng tỏ có tổn thương nông, cấp tính trên diện rộng của tế bào gan.
Nếu SGOT >>> SGPT chứng tỏ tổn thương sâu đến lớp dưới tế bào (ty thể)
Mẫu máu: Mẫu máu lấy vào buổi sáng, lúc đói: 3ml máu không chống đông hoặc chống đông bằng lithiheparin.

8. Tên xét nghiệm: GGT (Gama Glutamyl Transferase)
Chỉ định: Các bệnh lý gan mật.
Trị số bình thường:
Nam ≤ 45 U/I
Nữ ≤ 30 U/I
GGT tăng cao trong các trường hợp: Nghiện rượu, viêm gan do rượu, ung thư lan tỏa, xơ gan, tắc mật...
GGT tăng nhẹ trong các trường hợp: Viêm tụy, béo phì, do dùng thuốc...
Mẫu máu: Mẫu máu lấy vào buổi sáng, lúc đói: 2ml máu không chống đông hoặc chống đông bằng lithiheparin.

9. Tên xét nghiệm: ALP (phosphatase kiềm)
Chỉ định: Bệnh xương, bệnh gan mật.
Trị số bình thường: 90 - 280 U/I
ALP tăng rất cao trong các trường hợp: Tắc mật, ung thư lan tỏa.
ALP cũng tăng trong các trường hợp: Viêm xương, bệnh Paget (viêm xương biến dạng), ung thư xương tạo cốt bào, nhuyễn xương, còi xương. Vàng da tắc mật, viêm gan thứ phát (sau tăng bạch cầu đơn nhân nhiễm khuẩn, bệnh Hodgkin, dùng thuốc tiểu đường, thuốc điều trị huyết áp...)
ALP giảm trong các trường hợp: Thiếu máu ác tính, suy cận giáp, thiếu vitamin C, dùng thuốc giảm mỡ máu...
Mẫu máu: 2ml không chống đông hoặc chống đông bằng lithiheparin.
Tên xét nghiệm: Bilirubin máu.
Chỉ định: Các trường hợp vàng da do bệnh gan mật, tụy, tan máu.
Trị số bình thường: Bilirubin toàn phần ≤ 17,0 mmol/l
Bilirubin trực tiếp  4,3 mmol/l
Bilirubin gián tiếp ≤ 12,7 mmol/l
Bilirubin toàn phần tăng cao trong các trường hợp: Vàng da do nguyên nhân trước gan (tan máu), trong gan (viêm gan), sau gan (sỏi ống mật chủ, u đầu tụy...)
Bilirubin trực tiếp tăng trong các trường hợp: Tắc mật, viêm gan cấp, ung thư đầu tụy...
Bilirubin gián tiếp tăng trong: Thalassemia, tan máu, vàng da sinh lý ở trẻ sơ sinh...
Mẫu máu: Mẫu máu lấy vào buổi sáng, lúc đói: 3ml máu không chống đông hoặc chống đông bằng lithiheparin.

10. Tên xét nghiệm: Protein toàn phần
Chỉ định: Đa u tủy xương, bệnh gan (xơ gan, viêm gan...), bệnh thận (hội chứng thận hư nhiễm mỡ, viêm cầu thận...), suy kiệt, kiểm tra sức khỏe định kỳ...
Trị số bình thường: 65 - 82 g/l.
Protein tăng trong các bệnh lý: Đa u tủy (Kahler), bệnh Waldenstrom, thiểu năng vỏ thượng thận... Ngoài ra có thể gặp protein máu tăng trong các trường hợp cô đặc máu: sốt kéo dài, ỉa chảy nặng, nôn nhiều...
Protein giảm trong các trường hợp: Thận hư nhiễm mỡ, xơ gan, ưu năng giáp nhiễm độc, suy dinh dưỡng... ngoài ra, có thể gặp giảm protein máu do pha loãng máu (nhiễm độc nước, truyền dịch quá nhiều...)
Mẫu máu: Mẫu máu lấy vào buổi sáng, lúc đói: 3ml máu không chống đông hoặc chống đông bằng lithiheparin.

11. Tên xét nghiệm: Albumin máu
Chỉ định: Đa u tủy xương, bệnh gan (xơ gan, viêm gan...), bệnh thận (hội chứng thận hư, nhiễm mỡ, viêm cầu thận...) suy  kiệt...
Trị số bình thường: 35 - 55 g/l
Albumin tăng thường ít gặp: Shock, mất nước...
Albumin giảm thường gặp trong các trường hợp: Xơ gan, suy dinh dưỡng, hội chứng thận hư, viêm cầu thận, đa u tủy (Kahler), Waldenstrom...
Mẫu máu: Mẫu máu lấy vào buổi sáng, lúc đói: 3ml máu không chống đông hoặc chống đông bằng lithiheparin.

12. Tên xét nghiệm: Chỉ số A/G
Chỉ định: Đa u tủy, xơ gan, việm thận cấp, thận hư nhiễm mỡ...
Trị số bình thường: 1,2 - 2,2
A/G < 1 do tăng globulin, do giảm Albumin hoặc phối hợp cả 2:
- Giảm albumin: do thiếu dinh dưỡng, ung thư, lao, suy gan...
- Tăng globulin: Đa u tủy xương, bệnh collagen, nhiễm khuẩn...
- Đồng thời giảm albumin và tăng globulin: Xơ gan, viêm thận cấp, thận hư nhiễm mỡ, đau tủy xương...
Mẫu máu: Mấu máu lấy vào buổi sáng, lúc đói: 3ml máu không chống đông hoặc chống đông bằng lithiheparin.

13. Tên xét nghiệm: Định lượng B2M (B2 Microglobulin)
Ý nghĩa: B2M do các tế bào lympho, tương bào sản sinh và có trên bề mặt các tế bào này. Định lượng B2M góp phần  phân loại, tiên lượng, theo dõi hiệu quả điều trị bệnh đa u tủy xương, u lympho.
Chỉ định: Bệnh đa u tủy xương, u lympho
Trị số bình thường: 0,8 - 2,2 mg/l
B2M tăng trong các trường hợp nhiễm trùng mãn tính, suy giảm chức năng thận, các bệnh ác tính. Đặc biệt, B2M tăng cao ở bệnh nhân đa u tủy xương, u lympho.
Mẫu máu: Mẫu máu lấy vào buổi sáng, lúc đói: 3ml máu không chống đông hoặc chống đông bằng lithiheparin.

14. Tên xét nghiệm: Cholesterol toàn phần.
Chỉ định: Rối loạn mỡ máu, vữa xơ động mạch, tăng huyết áp, hội chứng thận hư, kiểm tra sức khỏe định kỳ cho những người trên 40 tuổi, những người béo phì...
Trị số bình thường: 3,9 - 5,2 mmol/l.
Cholesterol tăng trong các trường hợp: rối loạn lipid máu nguyên phát hoặc thứ phát, vữa xơ động mạch, hội chứng thận hư, vàng da tắc mật ngoài gan, bệnh vảy nến...
Cholesterol giảm trong các trường hợp: hấp thu kém, suy kiệt, ung thư, biếng ăn...
Mẫu máu: Mẫu máu lấy vào buổi sáng, lúc đói: 3ml máu không chống đông hoặc chống đông bằng lithiheparin.

15. Tên xét nghiệm: Triglycerid
Chỉ định: Rối loạn mỡ máu, vữa xơ động mạch, tăng huyết áp, hội chứng thận hư, u vàng, viêm tụy, kiểm tra sức khỏe định kỳ cho những người trên 40 tuổi, những người béo phì...
Trị số bình thường: 0,5 - 2,29 mmol/l.
Triglycerid tăng trong các trường hợp: Vữa xơ động mạch, rối loạn lipid máu, hội chứng thận hư, bệnh béo phì, đái tháo đường...
Triglycerid giảm trong các trường hợp: xơ gan, hội chứng kém hấp thu, suy kiệt, cường tuyến giáp...
Mẫu máu: Mẫu máu lấy vào buổi sáng, lúc đói: 3ml máu không chống đông hoặc chống đông bằng lithiheparin.

16. Tên xét nghiệm: HDL-C
Chỉ định: Rối loạn mỡ máu, vữa xơ động mạch, tăng huyết áp, kiểm tra sức khỏe định kỳ cho những người trên 40 tuổi...
Trị số bình thường:  0,9 mmol/l.
HDL-C tăng: ít nguy cơ gây vữa xơ động mạch.
HDL-C giảm: dễ có nguy cơ gây vữa xơ động mạch, hay gặp trong các trường hợp rối loạn mỡ máu, vữa xơ động mạch, tăng huyết áp, cơn đau thắt ngực...
Người ta thường chú ý tới tỉ số CHOLESTEROL TOÀN PHẦN/HDL-C. Tỉ số này tốt nhất là <4, tỉ số này càng cao thì khả năng vữa xơ động mạch càng nhiều.
Mẫu máu: Mẫu máu lấy vào buổi sáng, lúc đói: 3ml máu không chống đông hoặc chống đông bằng lithiheparin.

17. Tên xét nghiệm: LDL-C
Chỉ định: Rối loạn mỡ máu, vữa xơ động mạch, tăng huyết áp, bệnh mạch vành, đái tháo đường...
Trị số bình thường: <=3,4mmol/l
LDL-C càng cao, nguy cơ bị vữa xơ động mạch càng lớn.
LDL-C tăng trong các trường hợp: Vữa xơ động mạch, rối loạn lipid máu, bệnh béo phì...
LDL-C giảm trong các trường hợp: Xơ gan, hội chứng kém hấp thu, suy kiệt, cường tuyến giáp...
Mẫu máu: Mẫu máu lấy vào buổi sáng, lúc đói: 3ml máu không chống đông hoặc chống đông bằng lithiheparin.

18. Tên xét nghiệm: Canxi toàn phần
Chỉ định: Đa u tủy, loãng xương, còi xương, dùng thuốc lợi tiểu Diazit kéo dài...
Trị số bình thường: 2,2 - 2,7 mmol/l
Canxi toàn phần tăng trong các trường hợp: Loãng xương, đa u tủy, cường phó giáp trạng, bệnh Paget, cường giáp, dùng lợi tiểu Diazit...
Canxi toàn phần giảm trong các trường hợp: Thiếu vitamin D, còi xương, thiểu năng giáp, suy thận, một số trường hợp không đáp ứng với vitamin D, hội chứng thận hư, các trường hợp giảm Albumin máu, tan máu, viêm tụy cấp, thai nghén...
Mẫu máu: Mẫu máu lấy vào buổi sáng, lúc đói: 3ml máu không chống đông hoặc chống đông bằng lithiheparin

19. Tên xét nghiệm: Ca++ MÁU
Chỉ định: Đa u tủy, loãng xương, suy thận...
Trị số bình thường: 1,17 - 1,29 mmol/l.
Ca++ tăng trong các trường hợp: Đa u tủy, loãng xương, viêm phổi, giảm phosphat máu, nhiễm độc vitamin D, cường cận giáp tiên phát hoặc thứ phát...
Ca++ giảm trong các trường hợp: Thiểu năng cận giáp, suy thận, bệnh Tetanie, còi xương, các bệnh có giảm Albumin máu...
Mẫu máu: Mẫu máu lấy vào buổi sáng, lúc đói: 3ml máu không chống đông hoặc chống đông bằng lithiheparin.

20. Tên xét nghiệm: Sắt trong máu
Chỉ định: Các trường hợp thiếu máu, mất máu cho chảy máu, trĩ, giun móc, thai nghén, nhiễm độc sắt, tan máu...
Trị số bình thường:
Nam: 11 - 27 mmol/l
Nữ: 7 - 26 mmol/l
Sắt tăng trong các trường hợp: tan máu, suy tủy, xơ tủy, rối loạn sinh tủy, xơ gan, nhiễm độc sắt, truyền  máu nhiều lần...
Sắt giảm trong các trường hợp: Thiếu máu thiếu sắt, viêm nhiễm mạn tính, chảy máu kéo dài, ăn kiêng, giảm hấp thu sắt (cắt đoạn ruột, dạ dày...)
Mẫu máu: Mẫu máu lấy vào buổi sáng, lúc đói: 3ml máu không chống đông hoặc chống đông bằng lithiheparin.

21. Tên xét nghiệm: Ferritin
Trong cơ thể, sắt được dự trữ dưới dạng Ferritin hoặc sản phẩm được cô đặc dạng bán tinh thể của nó là hemosiderin. Ferritin có TLPT là 440.000 dalton, gồm lớp vỏ protein (Apoferritin) và một lõi Fe+3- hydorxyt-phosphate có khả năng tích trữ và giải phóng sắt theo các nhu cầu sinh lý. Mỗi phân tử Ferritin có thể chứa tới 4.500 nguyên tử sắt, nhưng nó thường chứa dưới 3.000 nguyên tử sắt. Các kênh ở bề mặt apoferrtin cho phép tích trữ và giải phóng sắt. Khi sắt thừa, ferritin có khuynh hướng hình thành các oligomer ổn định và khi có mặt thừa trong các cơ quan dự trữ, nó có thể cô đặc lại dưới dạng bán tinh thể gọi là hemosiderin. Các hemosiderin trong các lysosom có thể nhìn được thấy bằng kính hiển vi và sử dụng để chẩn đoán.
Chỉ định: Những trường hợp thiếu máu, tan máu, các trường hợp cần đánh giá dự trữ sắt của cơ thể.
Trị số bình thường:
Nam giới và nữ giới đã mãn kinh: 16,4 - 323 ng/ml
Phụ nữ ở lứa tuổi sinh đẻ: 6,9 - 282 ng/ml.
Ferritin tăng rất cao trong các trường hợp: Suy tủy, tủy giảm sinh, rối loạn sinh tủy, Hogkin, đa u tủy xương...
Ferritin cũng tăng cao trong các trường hợp: Nhiễm trùng, có khối u mãn tính (tăng giả tạo), truyền khối hồng cầu nhiều lần, tan máu...
Ferritin giảm trong các trường hợp: Thiếu máu thiếu sắt, các bệnh mãn tính, viêm đa khớp, suy thận, các bệnh gây mất máu mãn tính (rong kinh, trĩ, viêm loét đường tiêu hóa, chảy máu dạ dày...) rối loạn hấp thu (do cắt dạ dày, viêm ruột non mãn tính)...
Mẫu máu: Mẫu máu lấy vào buổi sáng, lúc đói: 3ml máu không chống đông hoặc chống đông bằng lithiheparin.

22. Tên xét nghiệm: Transferin (Tf), độ bão hòa transferin (Transferin safuration - Tfs) Transferin Receptor hòa tan (TfRS)
Ý nghĩa:
Transferin (Tf)
Sắt được vận chuyển trong huyết tương dưới dạng Fe+3 gắn với transferin và chuyển đến gắn vào các Receptor màng tế bào của các cơ quan đích (TfR), mỗi phân tử Tf có thể gắn tối đa 2 ion sắt. Tf được tổng hợp ở gan, sự tổng hợp được điều hòa bởi nhu cầu sắt của cơ thể.
Nồng độ Tf tăng khi cơ thể có hiện tượng thiếu sắt (nồng độ Ferritin giảm với một sự tăng bù trừ của Tf và độ bão hòa Transferin thấp), thiếu máu nhược sắc, thiếu oxy ở mô, Tf giảm khi cơ thể quá tải sắt, tan máu, những bệnh lý tạo hồng cầu kém, bệnh nhiễm sắc tố sắt, bệnh gan nặng giai đoạn cuối không tổng hợp được Tf... Có thể nói sự tăng hay giảm Tf xảy ra rất sớm, trước khi có biến động về nồng độ sắt và Ferritin trong huyết thanh. Trong điều kiện sinh lý, Transferin luôn có số lượng vượt quá khả năng gắn sắt bình thường, chỉ có khoảng 1/3 các vị trí của transferin bão hòa bởi sắt, sự bỏ trống của khoảng 2/3 các vị trí gắn của Transferin được coi như khả năng gắn sắt tiềm tàng của cơ thể.

Trị số bình thường:
- Nồng độ Transferin: 200 - 360 mg/dl.
Độ bão hòa Transferin (Transferin Saturation = TfS):\
Thông số này đánh giá tình trạng vận chuyển sắt của Transferin. Hằng số gắn của Fe+3 lên Transferin của các loài là khác nhau. Vì vậy khi cơ thể thừa Transferin thì không còn thấy Fe+3 ở trạng thái tự do.
TfS tăng: Quá tải sắt, tan máu, các bệnh tạo hồng cầu kém, bệnh nhiễm sắc tố sắt...
TfS giảm: Thiếu sắt, rối loạn phân bố sắt, rối loạn sử dụng sắt...
Có thể nói rằng: Khi thiếu sắt, độ bão hòa của Tf là chỉ số rất nhạy để đánh giá mức độ thiếu sắt trong cơ thể.
Trong trường hợp thiếu máu mà nguyên nhân do nhiễm sắc thể thì TfS có giá trị hơn Ferritin. Đặc biệt khi điều trị thiếu máu bằng Erythropietin ở những bệnh nhân suy thận, viêm thận mãn thì chỉ hiệu quả khi cung cấp đủ sắt và theo dõi điều trị dựa vào TfS.

Trị số bình thường:
- Tỷ lệ bão hòa Transferin (TfS): 16% - 45%.
Transferin Receptor (TfR) và transferin Receptor hòa tan (STfR).
Bình thường trên màng tế bào (chủ yếu của hệ tạo máu) có một số lượng bình thường các chất nhận Transferin (TfR) ở trạng thái hoạt động, còn phần lớn ở trạng thái chưa hoạt động, chúng chỉ thực sự hoạt động khi bị một loại men proteinase cắt đi một đoạn protein, phần còn lại trên màng tế bào chính là TfR hoạt động, còn đoạn protein bị cắt ra giải phóng vào máu là STfR.
TfR hòa tan (STfR) chính là TfT hiện diện trong huyết tương, nồng độ của ccs TfR hòa tan tỷ lệ thuận với TfR trên màng tế bào. Việc lấy sắt của các tế bào được kiểm soát bởi các Receptor trên màng tế bào. Các mô và tế bào tự điều chỉnh sự hấp thu sắt của chúng bằng sự suất hiện TfR trên mạng tế bào ở trạng thái hoạt động. Nếu thiếu sắt, tế bào tăng tổng hợp TfR và nó có thể làm tăng số chất nhận lên gấp 7 lần, ngược lại khi thừa sắt số lượng chất nhận trên màng tế bào giảm xuống đến mức cơ bản. Có khoảng 80-95% TfR có trên màng tế bào của cơ quan tạo máu. Như vậy, TfR phản ánh rất trung thực nhu cầu sắt của tế bào tạo hồng cầu. Có thể nói khi thiếu sắt, TfR hòa tan tăng trước khi hemoglobin giảm có ý nghĩa. Như vậy, TfR hòa tan có giá trị chẩn đoán sớm tình trạng thiếu máu thiếu sắt. Việc xác định nồng độ STfR ở người khỏe mạnh là một chỉ dẫn tốt cho việc đánh giá hoạt động tạo máu.
Chỉ định: Tất cả các trường hợp thiếu máu thiếu sắt (rong kinh, trĩ, giun móc, rối loạn hấp thu...)
TfS hòa tan tăng trong: Đa hồng cầu, thiếu máu tan máu, thalassemia, bệnh hồng cầu di truyền, thiếu máu hồng cầu hình liềm, thiếu máu hồng cầu to, MDS, thiếu B12, các trường hợp có thai thiếu sắt chức năng.
Khi điều trị bằng Erythropoietin có thể theo dõi và điều chỉnh thông qua nồng độ STfR. Trong quá trình điều trị mà TfS giảm là dấu hiệu của sự huy động sắt không đầy đủ và do đó có sự thiếu hụt sắt chức năng, khi đó đòi hỏi phải có sự thay thế sắt.

Trị số bình thường:
- TfR hòa tan:
Nam: 2,2 - 5 mg/l
Nữ: 1,9 - 4,4 mg/l
Mẫu máu: Mẫu máu lấy vào buổi sáng, lúc đói: 2ml máu không chống đông hoặc chống đông bằng lithiheparin.
Chỉ số sTfR = STfR/Log Ferritin:
Ý nghĩa: chỉ số này cho phép đánh giá chính xác tình trạng sắt của cơ thể.
Ngược với ferrtin, sTfR không bị ảnh hưởng bởi các phản ứng cấp, các rối loạn chức năng gan cấp hay khối u ác tính. Vì vậy, dựa vào thông số: Ferritin và sTfR có thể phân biệt được thiếu máu thiếu sắt hay thiếu máu trong các bệnh mãn tính.
Khả năng gắn sắt toàn thể (Total lon Binding Capacity - TIBC)
Ý nghĩa: TIBC cho biết khả năng lớn nhất mà sắt có thể gắn với protein huyết thanh. 
Giá trị bình thường: 28 - 110  µmol/l
Protoporphyrin hồng cầu (ZPP):
Ý nghĩa: Trong một thiếu hụt sắt thực sự và những rối loạn sắt gây nên bởi khối u và nhiễm trùng, khả năng bị giảm của sắt trong tổng hợp hem dẫn đến sự bù trừ bằng cách tăng sự kết hợp của kẽm vào vòng protoporphyrin. Điều này có thể xác định được bằng cách định lượng Zn-protoporphyrin trong hồng cầu (ZPP), và có thể sử dụng ZPP như mọt yếu tố thêm vào để chấn đoán các rối loạn sử dụng sắt có nồng độ Ferritin bình thường hoặc tăng.
Giá trị bình thường: 19 38  µmol ZP/mol Hem.

22. Tên xét nghiệm: Amylase máu
Chỉ định: Các bệnh vè tụy (viêm tụy, u tụy, K tụy...) viêm tuyến nước bọt, quai bị...
Trị số bình thường: <= 220 U/I.
Amylase tăng cao trong các trường hợp: Viêm tụy cấp, ung thư tụy, quai bị, viêm tuyến nước bọt, thủng dạ dày, tắc ruột cấp...
Amylase giảm thường ít gặp: ung thư tụy, sỏi tụy.
Mẫu máu: Mẫu máu lấy vào buổi sáng, lúc đói: 3ml máu không chống đông hoặc chống đông bằng lithiheparin.

23. Tên xét nghiệm: CK (Creatin - Kinase)
Ý nghĩa và chỉ định:
- CK là men có nhiều trong cơ tim và cơ xương, nồng độ men này phản ánh tình trạng tổn thương cơ.
- Chỉ định trong các trường hợp nghi ngờ nhồi máu cơ tim, viêm cơ tim, bệnh lý về cơ (viêm cơ, loạn dưỡng cơ)...
Trị số bình thường: <= 200 U/I.
CK tăng cao trong các trường hợp: Nhồi máu cơ tim, viêm cơ tim, chấn thương cơ, viêm cơ, choáng, hoạt độ CK tăng gặp ở nhiều loại tổn thương cơ, bệnh loạn dưỡng cơ Duchene tiến triển và một số trạng thái (gắng sức sinh lý, sốt cao ác tính, thiếu oxy cơ, sau phẫu thuật, sau tiêm bắp một số thuốc kháng sinh, điều trị thuốc giảm đau, thuốc chống loạn nhịp...)
CK giảm trong trường hợp: teo cơ.
Mẫu máu: Mẫu máu lấy vào buổi sáng, lúc đói: 3ml máu không chống đông hoặc chống đông bằng lithiheparin.

24. Tên xét nghiệm: CK-MB (Creatin Kinase-Mucle Brain)
Ý nghĩa và chỉ định:
- CK-MB là một trong 3 isozym của CK, đó là: CK-MM (Creatin Kinase-Mucle Mucle: CK tuyp cơ), CK-MB (Creatin Kinase-Mucle Brain: CK tuýp tim), CK-BB (Creatin Kinase-Brain Brain: Ck tuýp não). Xét nghiệm này giúp đánh giá tình trạng tổn thương cơ, đặc biệt, có tính đặc hiệu cao hơn CK trong nhồi máu cơ tim.
- Chỉ định trong các trường hợp nghi ngờ nhồi máu cơ tim, tổn thương cơ...
Trị số bình thường: <=24U/I.
CKMB tăng trong các trường hợp: Nhồi máu cơ tim (Khi CK>2000U/I và tỉ lệ CKMB/CK>=6%: có giá trị chẩn đoán nhồi máu cơ tim) viêm cơ. CK-MB cũng tăng ở những trường hợp tổn thương cơ tim k hác như chấn thương tim, phẫu thuật tim...
Mẫu máu: Mẫu máu lấy vào buổi sáng, lúc đói: 3ml máu không chống đông hoặc chống đông bằng lithiheparin.

25. Tên xét nghiệm: LDH (Lactacdehydrogenase)
Chỉ định: Các bệnh lý ác tính (ung thư máu, đa u tủy, ung thư dạ dày, ung thư gan... ) tan máu, nhồi máu cơ tim, viêm cơ...
Trị số bình thường: 230 - 460 U/I
LDH tăng trong các trường hợp: Các bệnh máu (leucemie, u lympho, tan máu...), ung thư gan, ung thư phổi, ung thư dạ dày... tổn thương cơ, hoại tử các mô...
Mẫu máu: Mẫu máu lấy vào buổi sáng, lúc đói: 3ml máu không chống đông hoặc chống đông bằng lithiheparin.

26. Tên xét nghiệm: CRP-Hs (C - Reactine Protein - High Sensitivity)
Ý nghĩa và chỉ đinh:















Copyright © 2012 ĐỒ SƠ SINH CHO BÉ All Right Reserved
Designed by Shopdososinh247
Back To Top